Thành phần của Thuốc tiêm Mircera 100mcg/0.3ml
Thông tin thành phần |
Hàm lượng |
---|---|
Methoxy polyethylene glycol-epoetin beta |
100-mg |
Công dụng của Thuốc tiêm Mircera 100mcg/0.3ml
Chỉ định
Thuốc Mircera® được chỉ định dùng trong các trường hợp sau:
- Điều trị thiếu máu do bệnh thận mạn tính ở cả những bệnh nhân đang được thẩm phân máu lẫn những bệnh nhân chưa được thẩm phân máu.
Dược lực học
Mircera – được tổng hợp hóa học – là một chất hoạt hóa liên tục thụ thể erythropoietin.
Mircera kích thích tạo hồng cầu bằng cách tương tác với thụ thể erythropoietin trên tế bào gốc ở tủy xương. Là yếu tố tăng trưởng chính cho sự phát triển erythroid, hormon tự nhiên erythropoietin được sản xuất từ thận và giải phóng vào máu khi có sự giảm oxy huyết. Phản ứng lại với sự giảm oxy huyết, những hormon tự nhiên erythropoietin sẽ tác động lên những tế bào gốc erythroid để làm tăng sự sản xuất hồng cầu.
Dược động học
Hấp thu sau khi tiêm dưới da
Sau khi tiêm thuốc vào dưới da những bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, người ta thấy nồng độ của methoxy polyethylene glycol – epoetin beta đạt được tối đa sau khi tiêm 72 giờ (giá trị trung điểm) ở các bệnh nhân có thẩm phân máu và 95 giờ ở bệnh nhân không thẩm phân máu.
Tính sinh khả dụng tuyệt đối của methoxy polyethylene glycol – epoetin beta sau khi tiêm dưới da ở bệnh nhân được thẩm phân máu là 62% và ở bệnh nhân không được thẩm phân máu là 54%.
Phân bố
Một thử nghiệm trên 400 bệnh nhân bi bệnh thận mạn tính da cho thấy thể tích phân bố của methoxy polyethylene glycol – epoetin beta vào khoảng 5l.
Thải trừ
Sau khi tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính, thời gian bán thải của methoxy polyethylene glycol – epoetin beta là 134 giờ (hoặc 5,6 ngày), và độ thanh thải toàn thân là 0,494 ml/giờ/kg. Sau khi tiêm dưới da, thời gian bán thải cuối (T1/2) ở bệnh nhân là 139 giờ ở bệnh nhân thẩm phân máu và 142 giờ ở bệnh nhân không thẩm phân máu.
Cách dùng Thuốc tiêm Mircera 100mcg/0.3ml
Cách dùng
Tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch.
Liều dùng
Liều chuẩn
Số lần dùng Mircera sẽ ít hơn những chất kích thích tạo hồng cầu khác do thuốc có thời gian bán thải dài hơn.
Điều trị với Mircera phải được bắt đầu dưới sự giám sát của bác sĩ.
Điều trị bệnh nhân thiếu máu do bệnh thận mạn tính
Dung dịch có thể tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch, tùy theo từng bệnh cảnh lâm sàng. Mircera có thể được tiêm vào dưới da ở vùng bụng, cánh tay hoặc đùi. Cả ba vị trí này đều thuận tiện như nhau để tiêm Mircera dưới da.
Nên theo dõi mức hemoglobin của bệnh nhân mỗi hai tuần một lần cho đến khi mức này ổn định, và theo dõi định kỳ sau đó.
Bệnh nhân hiện chưa được điều trị với chất kích thích tạo hồng cầu nào
Bệnh nhân không đang thẩm phân máu
Để tăng lượng hemoglobin lên cao hơn 11g/dl (6,83 mmol/l), liều khởi đầu khuyến cáo là 1,2 μg/kg cân nặng dùng 1 lần mỗi tháng bằng cách tiêm dưới da. Hoặc cách khác, có thể dùng liều khởi đầu 0,6μg/kg cân nặng 1 lần mỗi 2 tuần bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da.
Bệnh nhân đang thẩm phân máu
Để tăng lượng hemoglobin lên cao hơn 11 g/dl (6,83 mmol/l), liều khuyến cáo là 0,6μg/kg cân nặng 1 lần mỗi 2 tuần bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da.
Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin ít hơn 1,0 g/dl (0,621mmol/l), liều Mircera có thể được tăng thêm khoảng 25 đến 50% của liều trước đó. Cứ sau mỗi tháng, có thể tăng liều khoảng 25 đến 50% cho đến khi đạt được mức hemoglobin cần thiết cho mỗi bệnh nhân.
Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin nhiều hơn 2 g/dl (1,24 mmollL), liều dùng có thể được giảm đi khoảng 25 đến 50%. Nếu mức hemoglobin vượt quá 13 g/dl (8,07 mmol/l), phải ngưng việc điều trị cho đến khi mức hemoglobin giảm xuống dưới 13 g/dl và sau đó, bắt đâu điều trị lại với liều xấp xỉ 50% liều đã dùng trước đó. Với những quốc gia áp dụng mức hemoglobin giới hạn cao là 12 g/dl, sự điểu chỉnh liều theo mức 25% cần được xem xét. Sau khi tạm ngừng dùng thuốc, hemoglobin giảm khoảng 0,35 g /dI mỗi tuần.
Bệnh nhân được điều trị một lần mỗi 2 tuần mà nồng độ hemoglobin vượt quá 11 g/dl (6,83 mmol/l) có thể dùng Mircera một lần mỗi tháng với liều gấp hai lần so với liều một lần mỗi hai tuần trước đó.
Không nên điều chỉnh liều dùng nhiều hơn một lần mỗi tháng.
Bệnh nhân hiện đang được điều tri với một chất kích thích tạo hồng cầu
Bệnh nhân hiện đang được điều trị với một chất kích thích tạo hồng cầu có thể được chuyển sang tiêm tĩnh mạch liều đơn hoặc tiêm dưới da Mircera mỗi tháng một lần hoặc, nếu cần thiết, mỗi hai tuần một lần. Liều khởi đầu Mircera tuỳ thuộc vào liều epoetin hoặc darbepoetin alfa đã tính được trước đó mà bệnh nhân đang được dùng hàng tuần tại thời điểm chuyển sang dùng Mircera. Liều khởi đầu này được trình bày trong bảng 1 va 2 ở dưới đây. Lần tiêm Mircera đầu tiên nên được tiến hành vào lúc dự định tiêm mũi epoetin hoặc darbepoetin alfa kế tiếp trong phác đồ điều trị trước đó.
Bảng 1: Chuyển từ Epoetin sang điều trị bằng Mircera:
Liều epoetin dùng hàng tuần trước đó (đơn vị/tuần) |
Liều Mircera |
|
Mỗi tháng một lần (μg/tháng) |
Một lần mỗi 2 hai tuần (μg/mỗi hai tuần) |
|
< 8000 |
120 |
60 |
8000 – 16000 |
200 |
100 |
> 16000 |
360 |
180 |
Bảng 2: Chuvển từ darbepoetin alfa sang điều trị bằng Mircera:
Liều darbepoetin alfa dùng hàng tuần trước đó (μg/tuần) |
Liều Mircera |
|
Mỗi tháng một lần (μg/tháng) |
Một lần mỗi 2 hai tuần (μg/mỗi hai tuần) |
|
< 40 |
120 |
60 |
40 – 80 |
200 |
100 |
> 80 |
360 |
180 |
Nếu cần phải điều chỉnh liều để duy trì nồng độ hemoglobin đã đạt được ở mức trên 11 g/dl (6,83 mmol/l), liều dùng hàng tháng có thể được điều chỉnh khoảng 25%.
Nếu sau một tháng điều trị, tốc độ tăng hemoglobin nhiều hơn 2 g/dl (1,24 mmol/l), liều dùng có thể được giảm đi khoảng 25 – 50%. Nếu mức hemoglobin vượt quá 13 g/dl (8,07 mmol/l), phải ngưng việc điều trị cho đến khi mức hemoglobin giảm xuống dưới 13 g/dl và sau đó, bắt đầu điều trị lại với liều xấp xỉ 50% liều đã dùng trước đó. Với những quốc gia áp dụng mức hemoglobin giới hạn cao là 12 g/dl, sự điều chỉnh liều theo mức 25% cần được xem xét. Sau khi tạm ngừng dùng thuốc, hemoglobin giảm khoảng 0,35 g /dI mỗi tuần. Không nên điều chỉnh liều dùng nhiều hơn một lần mỗi tháng.
Sử dụng cho trẻ em
Không nên dùng Mircera cho bệnh nhi dưới 18 tuổi do chưa có đủ những dữ liệu về an toàn và hiệu quả của thuốc trên những đối tượng này.
Người già
Không cần điều chỉnh liều dùng ban đầu ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên.
Ở người suy gan
Không cần điều chỉnh hoặc thay đổi liều dùng ban đầu ở các bệnh nhân suy gan ở mọi mức độ.
Lưu ý: Liều dùng trên chỉ mang tính chất tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
Làm gì khi dùng quá liều?
Giới hạn liều điều trị của Mircera rất rộng và đáp ứng với điều trị của từng bệnh nhân phải được xem xét khi bắt đầu điều trị với Mircera. Tình trạng quá liều có thể đưa đến biểu hiện của một tác động dược lực học quá mức, ví dụ như sự tạo hồng cầu quá mức.
Trong trường hợp mức hemoglobin quá cao, nên tạm ngưng dùng Mircera. Nếu có chỉ định trên lâm sàng, có thể cần phải trích máu tĩnh mạch.
Làm gì khi quên 1 liều?
Nếu một liều Mircera bị bỏ sót, nên tiêm lại liều này càng sớm càng tốt và phải bắt đầu dùng Mircera lại theo đúng như số lần dùng đã được chỉ dẫn.
Tác dụng phụ
Khi sử dụng thuốc Mircera®, bạn có thể gặp các tác dụng không mong muốn (ADR).
Những thử nghiệm lâm sàng
Thường gặp, 1/100 < ADR > 1/10
- Rối loạn mạch máu: Tăng huyết áp.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100
-
Những thương tổn, sự nhiễm độc và những biến chứng thông thường: Huyết khối mạch máu.
-
Rối loạn hệ thần kinh: Đau đầu.
Hiếm gặp, 1/10.000 ADR < 1/1000
-
Rối loạn hệ miễn dịch: Quá mẫn.
-
Rối loạn hệ thần kinh: Bệnh não tăng huyết áp.
-
Rối loạn da và mô dưới da: Ban (dát sần, nặng).
Tất cả những tác dụng không mong muốn khác được cho là do Mircera gây ra đã được báo cáo với tỷ lệ hiếm gặp và phần lớn ở mức độ từ nhẹ đến trung bình. Những tác dụng không mong muốn này không thay đổi theo tình hình bệnh đi kèm đã được biết trong quần thể.
Những bất thường trong xét nghiệm cận lâm sàng
Trong những thử nghiệm lâm sàng, người ta đã quan sát thấy có sự giảm nhẹ số lượng tiểu cầu nhưng vẫn còn nằm trong giới hạn bình thường, trong thời gian điều trị với Mircera.
Số lượng tiểu cầu dưới 100×109/l đã được ghi nhận trong 7,5% số bệnh nhân được điều trị với Mircera và 4,4% số bệnh nhân được điều trị với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác.
Sau khi thuốc ra thị trường
Các thông tin về độ an toàn thu thập được sau khi thuốc ra thi tường đã phản ánh đúng những tác dụng không mong muốn được dự báo ở các nhóm dân số này và đặc điểm ADR của methoxy polyethylene glycol – epoetin beta.
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Thông báo cho bác sĩ nếu thấy bất kỳ phản ứng phụ nào có liên quan đến việc dùng thuốc.
Lưu ý
Trước khi sử dụng thuốc bạn cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và tham khảo thông tin bên dưới.
Chống chỉ định
Thuốc Mircera® chống chỉ định trong các trường hợp sau:
-
Bệnh nhân bị cao huyết áp không kiểm soát được.
-
Bệnh nhân được biết bị quá mẫn với hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần tá dược nào của thuốc.
Thận trọng khi sử dụng
Liệu pháp bổ sung sắt được khuyến cáo cho tất cả những bệnh nhân có trị số ferritin huyết thanh thấp dưới 100ug/l hoặc độ bão hòa transferin dưới 20%. Để đảm bảo việc tạo hồng cầu có hiệu quả, nên đánh giá tình trạng sắt của tất cả các bệnh nhân trước và trong suốt quá trình điều trị với thuốc.
Kém hiệu quả
Những nguyên nhân phổ biến nhất của việc không đáp ứng đầy đủ với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu là do thiếu sắt và những tình trạng viêm nhiễm. Những trường hợp sau đây cũng có thể làm giảm hiệu quả của việc điều trị với những yếu tố kích thích tạo hồng cầu: Mất máu mãn tính, xơ hóa tủy xương, quá tải nhôm nặng do điều trị suy thận, thiếu hụt acid folic hoặc vitamin B12 và sự tan huyết.
Nếu loại trừ được tất cả những trường hợp trên và bệnh nhân đột ngột bị giảm hemoglobin kèm theo giảm hồng cầu lưới và có kháng thể chống erythropoietin, thì nên cân nhắc đến việc xét nghiệm tủy xương để chẩn đoán có phải là hội chứng bất sản đơn thuần dòng hồng cầu (PRCA) hay không. Nếu đúng là PRCA, phải ngưng dùng Mircera và không nên chuyển sang dùng bất kỳ yếu tố kích thích tạo hồng cầu nào khác cho bệnh nhân.
Hội chứng bất sản đơn thuần dòng hồng cầu (PRCA) do kháng thể chống erythropoietin đã được báo cáo là có liên quan đến việc sử dụng các yếu tố kích thích tạo hồng cầu. Người ta thấy rằng những kháng thể này có phản ứng chéo với tất cả các yếu tố kích thích tạo hồng cầu, và không nên chuyển sang dùng Mircera cho những bệnh nhân bị nghi ngờ hoặc chắc chắn là có kháng thể chống erythropoietin.
Theo dõi huyết áp
Cũng như những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác, trong suốt quá trình điều trị thiếu máu với Mircera, huyết áp có thể tăng lên. Nên kiểm soát đầy đủ huyết áp trước khi điều trị, vào lúc bắt đầu điều trị và trong suốt quá trình điều trị với Mircera. Nếu tình trạng huyết áp cao khó được kiểm soát bằng thuốc hoặc bằng những chế độ tiết thực, thì cần phải giảm liều hoặc ngưng dùng Mircera (Xem mục liều lượng và cách dùng).
Ảnh hưởng lên sự phát triển của khối u
Mircera cũng như những yếu tố kích thích tạo hồng cầu khác, là một yếu tố tăng trưởng, kích thích chủ yếu quá trình tạo hồng cầu. Những thụ thể của erythropoietin hiện diện trên bề mặt của nhiều tế bào ung thư. Như những yếu tố tăng trưởng khác, các yếu tố kích thích tạo hồng cầu có thể kích thích sự tăng trưởng của bất kỳ loại khối u ác tính nào. Trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm chứng, epoetins đã được dùng cho những bệnh nhân bị nhiều loại ung thư khác nhau, bao gồm ung thư vùng đầu – cổ và ung thư vú, người ta đã ghi nhận được một sự gia tăng tỷ lệ tử vong không lý giải được.
Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp Mircera vẫn chưa được thiết lập cho những bệnh nhân bị bệnh hemoglobin, bệnh gan nặng, bị động kinh hoặc có số lượng tiểu cầu cao hơn 500×109/l. Vì vậy, cần thận trọng khi dùng thuốc cho những bệnh nhân này.
Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa có những nghiên cứu về tác động của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, dựa trên cơ chế tác dụng và những dữ liệu an toàn đã được biết của Mircera, người ta cho rằng thuốc không ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc.
Thời kỳ mang thai
Không có đủ những dữ liệu về việc dùng Mircera cho phụ nữ có thai.
Các thử nghiệm trên động vật không ghi nhận tác động có hại trực tiếp hoặc gián tiếp của thuốc lên sự mang thai, sự phát triển của phôi thai/thai nhi, sự sinh nở hoặc sự phát triển sau khi sinh. Nên thận trọng khi chỉ định dùng Mircera cho phụ nữ có thai.
Thời kỳ cho con bú
Người ta vẫn chưa biết được liệu methoxy polyethylene glycol – epoetin beta có bài tiết vào trong sữa mẹ ở người hay không. Một thử nghiệm trên động vật đã cho thấy rằng methoxy polyethylene glycol – epoetin beta được tiết vào trong sữa mẹ. Phải cân nhắc giữa lợi ích của việc cho con bú đối với trẻ và lợi ích của việc dùng Mircera cho mẹ mà quyết định tiếp tục hay ngưng cho con bú hoặc tiếp tục hay ngưng dùng Mircera.
Tương tác thuốc
Chưa có nghiên cứu nào về tương tác thuốc đã được tiến hành. Các kết quả lâm sàng không chỉ ra bất kỳ tương tác nào giữa Mircera với các thuốc khác. Ảnh hưởng của những thuốc khác lên dược động học và dược lực học của Mircera đã được thăm dò qua một khảo sát phân tích nhóm đối tượng. Không có dấu hiệu nào cho thấy tác động của những thuốc dùng kèm lên dược động học và dược lực học của Mircera.
Bảo quản
Bảo quản ở nhiệt độ 2 – 8°C (trong tủ lạnh).
Giữ lọ thuốc trong hộp giấy để tránh ánh sáng.
Giữ bơm tiêm đóng sẵn thuốc trong hộp giấy để tránh ánh sáng.
Không được làm đông lạnh thuốc.
Đối với bơm tiêm đóng sẵn: Bệnh nhân có thể lấy thuốc từ tủ lạnh để bảo quản ở nhiệt độ phòng (không quá 30°C) cho một liều dùng trong 1 tháng. Sau khi đã đưa ra khỏi tủ lạnh, thuốc phải được sử dụng trong khoảng thời gian này.
đánh giá nào
Chưa có đánh giá nào.